PHẦN I – CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRỊ LIỆU TÂM LÝ
Trong số những phương pháp điều trị người bệnh, đặc biệt là những người mắc các chứng tâm bệnh hay bệnh tâm thể, liệu pháp tâm lý có một sức hấp dẫn đặc biệt. Càng ngày các chuyên gia y học, tâm thần học và tâm lý học càng nhất trí cho rằng liệu pháp tâm lý đóng một vai trò đáng kể, nhiều khi đặc biệt quan trọng trong việc điều trị bệnh. Bởi vì bất kỳ một loại bệnh nào, dù đó là thực thể hay tâm thể đều có liên quan đến các quá trình sinh-tâm lý. Nói cách khác, những yếu tố tâm lý là một thành tố ảnh hưởng đáng kể đến quá trình phát sinh, duy trì và phục hồi bệnh lý.
Trị liệu tâm lý là gì ?
Trị liệu tâm lý hay tâm lý liệu pháp (Psychotherapy) khác biệt với trị liệu y sinh học (Biomedical Therapy), mặc dù chúng có chung nguồn gốc là trị liệu hay điều trị (Therapy) (một thuật ngữ chung nhất được dùng để chỉ tất cả những hình thức chữa trị một chứng bệnh hay một rối nhiễu bất kỳ). Trị liệu tâm lý cũng khác biệt với các kỹ thuật điều chỉnh hành vi khác như phẫu thuật tâm lý (Psychosurgery) hay tâm dược trị liệu (Psychodrug therapy).
Nếu sử dụng mô hình máy tính để mô phỏng hoạt động của não bộ chúng ta, có thể nói rằng những vấn đề của tâm trí hoặc có thể xảy ra trong phần cứng (thành phần, cấu trúc) hoặc ở phần mềm (các chương trình). Hai hướng điều trị chủ yếu đối với các chứng rối nhiễu tâm lý (Psychological disorders) nhằm vào phần cứng hoặc phần mềm.
– Liệu pháp y sinh học nhằm trực tiếp vào việc thay đổi phần cứng, tức là tạo những ảnh hưởng làm thay đổi các quá trình sinh lý như tăng cường hay hạn chế các quá trình dẫn truyền thần kinh hay các quá trình sinh hoá của hệ nội tiết, các quá trình trao đổi chất ở tế bào…. Các liệu pháp điều trị y sinh học nhằm thay đổi các hoạt động của não bộ với sự can thiệp của thuốc (hoá chất) hoặc vật lý. Chỉ có các bác sỹ tâm thần hay các chuyên gia y học (bác sỹ) mới có quyền kê đơn cho thuốc, điều trị bằng liệu pháp y sinh học.
– Liệu pháp tâm lý nhằm thay đổi phần mềm, tức là thay đổi xúc cảm, cảm giác, nhận thức – hành vi, những yếu tố đang duy trì trạng thái tâm lý bất ổn của cá nhân. Đó là quá trình tương tác qua lại giữa nhà trị liệu (với tư cách người thầy có kỹ năng. kinh nghiệm, được huấn luyện) và thân chủ (là chủ thể đang có những vướng mắc không tự giải quyết được). Trong đó, nhà trị liệu lắng nghe, thấu hiểu, nhạy cảm với những vấn đề của thân chủ, thông qua mối quan hệ đồng cảm và bằng kỹ năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, giúp tháo gỡ, giải toả những vướng mắc trói buộc về cơ thể, xúc cảm tình cảm, tư tưởng nhận thức do những stress, nếp nghĩ, thói quen tập nhiễm tạo ra. Các liệu pháp tâm lý bao giờ cũng liên quan tới việc sử dụng một hệ thống những biện pháp, những “kỹ thuật” tác động, điều chỉnh tiếp cận theo hướng động thái tâm lý, nhận thức hành vi, hiện tượng học hay hoạt động liên cá nhân… để đạt được những hiệu quả nào đó lên một chứng bệnh hoặc một rối nhiễu tâm trí. Tuy nhiên có những ràng buộc về mặt pháp lý và nghề nghiệp liên quan tới việc thực hành các kỹ thuật trị liệu tâm lý. Như vậy. hiểu theo nghĩa hẹp, chính xác hơn, liệu pháp tâm lý chính là những biện pháp, kỹ thuật trị liệu nào đó đã được chấp nhận và được thực hiện bởi những người có chuyên môn hoặc đã qua những lớp đào tạo, huấn luyện với những ràng buộc đạo đức, nghề nghiệp – pháp lý.
Tính lịch sử và văn hoá trong quan niệm và cách điều trị các chứng bệnh tâm trí
Ở những nền văn hoá khác nhau, việc điều trị các chứng bệnh rối nhiễu tâm lý và rối loạn tâm thần (gọi chung là rối nhiễu hay rối loạn tâm trí) được xem xét trong phạm vi rộng hơn, bao hàm cả các giá trị tôn giáo và xã hội.
Lịch sử chữa trị các chứng tâm bệnh đã chứng kiến những cảnh đối xử thiếu tình người đối với các bệnh nhân có những rối loạn tâm trí.
Trong suốt lịch sử phát triển của mình, con người luôn luôn sợ những rối loạn tâm trí, cho đó là do “ma làm, quỷ nhập”.
Giữa thế kỷ XV, ở Đức, thuật ngữ MAD (người điên) được quy ghép cho quỷ thần (qui thần đã lấy mất lý trí của những người này). Theo toà án giáo hội. người có rối loạn tâm trí sẽ bị hành hạ. Quan niệm và thái độ sai lầm này đã lan ra khắp Châu Âu. Thậm chí, thời kỳ phục hưng nở rộ những tài năng về nghệ thuật và trí tuệ nhưng nỗi lo sợ những người có những rối loạn tâm trí vẫn tăng lên. Nhà thờ Thiên Chúa giáo ở ROMA đã phát động chiến dịch “tiễu trừ quỉ”. Những người bị rối loạn tâm trí bị nhốt, bị đối xử như những con vật, bị hành hạ đau đớn cho đến chết hoặc bị truy bức như những nhân chứng của ma quỉ.
Vào năm 1692, ở thị trấn Massachusetts, có một số cô gái và những phụ nữ trẻ trải nghiệm những cơn co giật, ngất và buồn nôn. Những người này có cảm giác đau tức, khó thở, cảm giác như bị ai cấu véo, cảm giác đau buốt như bị ai cắn. Một số có cảm giác như bay trong không khí. Những triệu chứng kỳ lạ này bị coi là do quỉ thần ám hoặc do các thầy phù thuỷ sai khiến, kết quả là hơn hai mươi người đã bị hành hình.
Mãi tới cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, nhận thức rối loạn tâm trí như là một chứng bệnh tâm thần mới xuất hiện ở Châu Âu. Chẳng hạn vào năm 1801, một bác sỹ người Pháp tên là Philippe Pinel đã viết: “Khác xa với những người phạm tội, họ xứng đáng bị trừng phạt. Người bị rối loạn tâm trí là người bệnh, họ có trạng thái đau khổ của con người. Họ nên được điều trị bằng phương pháp đơn giản nhất để phục hồi lý trí cho họ”. Năm 1818, Reie-một bác sỹ, một nhà giải phẫu học-đã viết cuốn “Cuồng tưởng và phương pháp tâm lý trong điều trị những sang chấn tâm lý”, trong đó chủ trương sử dụng liệu pháp tâm lý như là một hướng điều trị tích cực.