Học Liệu Số – Sổ Tay Pháp Luật Về Trọng Tài Và Hòa Giải Lưu Free

Học Liệu Số – Sổ Tay Pháp Luật Về Trọng Tài Và Hòa Giải

Danh mục: , , Người đăng: Minh Tính Lê Thị Nhà xuất bản: Tác giả: Ngôn ngữ: Tiếng Việt Định dạng: Lượt xem: 8 lượt Lượt tải: 0 lượt

Nội dung

CHƯƠNG I – KHUÔN KHỔ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH TRỌNG TÀI VÀ HÒA GIẢI

1.1. Khuôn khổ pháp luật trong nước và nguồn luật áp dụng cho trọng tài

Pháp luật trọng tài hiện hành của Việt Nam bao gồm những nguồn sau:

– Bộ luật Tố tụng dân sự số 92/2015/QH13 ngày 15/11/2015(“BLTTDS”, Phụ lục 3);

– Luật Trọng tài thương mại số 54/2010/QH12, ngày 17/6/2010 (“LTTTM”, Phụ lục 2);

– Luật Thi hành án dân sự số 26/2008/QH12, được sửa đổi theo Luật sửa đổi và bổ sung một số điều Luật thi hành án dân sự số 64/2014/QH13 (“LTHADS”);

– Nghị định số 63/2011/NĐ-CP ngày 28/7/2011 quy định chi tiết một số điều của Luật Trọng tài thương mại (“Nghị định 63/2011″);

– Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP do Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành ngày 20/3/2014 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Trọng tài thương mại (“Nghị quyết 01/2014″, Phụ lục 4);

Luật mẫu về trọng tài (Phụ lục 6) pháp điển hóa các nguyên tắc hoạt động thực tiễn tốt nhất trong trọng tài quốc tế. Tinh thần của Luật mẫu là hài hòa hóa luật trọng tài, thúc đẩy nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các bên và tính chung thẩm của trọng tài quốc tế bằng cách tối đa hóa thẩm quyền của tổ chức trọng tài và giới hạn sự can thiệp của tòa án. Bản thân Luật mẫu không phải là văn bản pháp luật, mà là mẫu để các nước mong muốn ban hành luật về trọng tài hiện đại, phù hợp, có thể tham khảo, sao chép. Một số nước sử dụng nguyên văn Luật mẫu. Những nước khác như Việt Nam, Anh và Xứ Wales tham khảo Luật mẫu nhưng ban hành quy định pháp luật khá khác biệt. Đáng chú ý có Singapore và Hồng Kong đã thông qua Luật mẫu.

1.2. Xung đột luật và trọng tài quốc tế

Trong trọng tài quốc tế có yếu tố nước ngoài, luật Việt Nam không tự động áp dụng đối với (i) việc giải quyết tranh chấp (luật điều chỉnh hợp đồng) hoặc (ii) thỏa thuận trọng tài (và tố tụng trọng tài). Về nguyên tắc, Hội đồng trọng tài quyết định luật áp dụng để giải quyết nội dung tranh chấp và thỏa thuận trọng tài bằng cách công nhận sự lựa chọn luật áp dụng của các bên được ghi nhận trong hợp đồng. Thêm vào đó, theo nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết của các bên, các bên có quyền lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng và cho thỏa thuận trọng tài. Luật điều chỉnh thỏa thuận trọng tài không nhất thiết là luật điều chỉnh hợp đồng, các bên có thể lựa chọn luật khác. Nếu các bên không nêu cụ thể hoặc ngầm định việc lựa chọn luật, thì Hội đồng trọng tài xác định luật áp dụng theo nguyên tắc về xung đột pháp luật trong quy tắc trọng tài mà các bên lựa chọn và nếu không có quy tắc này, thì theo quy tắc về xung đột luật của nơi tiến hành tố tụng trọng tài.

Tòa án có thể phải áp dụng quy định về xung đột luật tại Phần 5 BLDS 2015 khi xem xét giá trị pháp lý nội dung của thỏa thuận trọng tài. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng những sai sót về luật hoặc về lựa chọn luật của Hội đồng trọng tài không phải là căn cứ để từ chối công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài theo Điều V CƯNY.

1.3. Văn kiện quốc tế

1.3.1. Khuôn khổ pháp luật về thi hành phán quyết theo Công ước New York

CƯNY là văn bản quan trọng trong hoạt động trọng tài quốc tế và là một trong những thỏa thuận đa phương thành công nhất trong lịch sử. Tính đến tháng 8/2016, hơn 156 nước là thành viên của CƯNY (“Quốc gia thành viên”). Từ khi ban hành năm 1958, CƯNY tạo điều kiện thuận lợi cho việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài tại các quốc gia thành viên trên toàn thế giới, tạo ra lợi thế lớn cho trọng tài so với quá trình tố tụng tại tòa án quốc gia, đó là tính lưu động.

Với việc phê chuẩn CƯNY và trở thành một quốc gia thành viên, Việt Nam thỏa thuận “công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài theo quy tắc về thủ tục của [Việt Nam]” (Đ. 3 CƯNY). CƯNY thể hiện sự ủng hộ mạnh mẽ việc cho thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.

Tại Đ.2 Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày 28/7/1995 của Chủ tịch nước về việc tham gia CƯNY quy định:

– Công ước chỉ áp dụng đối với việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ quốc gia là thành viên của Công ước này. Đối với quyết định của trọng tài nước ngoài được tuyên tại lãnh thổ của quốc gia chưa ký kết hoặc tham gia Công ước, Công ước được áp dụng tại Việt Nam theo nguyên tắc có đi có lại.

Sẽ chỉ áp dụng Công ước đối với tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật thương mại.

– Mọi việc giải thích Công ước trước Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam phải theo quy định của Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.

Tuy nhiên, Đ. I(3) CƯNY chỉ quy định hai bảo lưu:

– Thứ nhất, nguyên tắc có đi có lại: Việt Nam tuyên bố áp dụng CƯNY cho việc công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài được ban hành tại lãnh thổ của Quốc gia thành viên khác. Danh sách Quốc gia thành viên được nêu trong Phụ lục 1. Đối với phán quyết trọng tài được ban hành tại lãnh thổ quốc gia không phải là thành viên, Việt Nam sẽ áp dụng CƯNY trên cơ sở có đi có lại.

– Thứ hai, các quan hệ pháp luật thương mại: Việt Nam tuyên bố chỉ áp dụng CƯNY cho những tranh chấp phát sinh từ quan hệ pháp lý được coi là “thương mại” theo luật Việt Nam.

Vì Việt Nam là bên ký kết CƯNY, việc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài phải được thực hiện phù hợp với quy định của CƯNY và pháp luật Việt Nam. Luật Việt Nam cũng yêu cầu Tòa án phải căn cứ vào công ước quốc tế khi thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài.

Tải tài liệu

1.

Học Liệu Số – Sổ Tay Pháp Luật Về Trọng Tài Và Hòa Giải

.pdf
27.34 MB

Có thể bạn quan tâm